CÔNG TY CỔ PHẦN MÔI TRƯỜNG ECLIM VIỆT NAM 
  • Uy tín - Chất lượng
    Sản phẩm và dịch vụ tốt nhất
  • Tận tâm - Trách nhiệm
    Với chúng tôi khách hàng là số 1
  • 0941 113 286
    0968 279 976
Menu

Ô nhiễm môi trường nước ở Việt Nam

Ngày nay, ô nhiễm môi trường ở Việt Nam đã và đang trở nên nghiêm trọng hơn. Hàng ngày, chúng ta có thể tìm thấy ảnh và thông tin về môi trường bị ô nhiễm trên các phương tiện truyền thông. Ô nhiễm nước ngày càng nghiêm trọng, mặc dù có những lời kêu gọi bảo vệ môi trường. Điều này buộc tất cả mọi người phải suy nghĩ...

Ô nhiễm môi trường nước đô thị

Hiện nay, ô nhiễm nước là vấn đề đáng lo ngại ở Việt Nam, mặc dù các cơ quan và ngành đã cố gắng thực hiện nhiều chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường. Công nghiệp và đô thị hóa đang phát triển với tốc độ nhanh chóng, khiến tài nguyên nước của khu vực bị áp lực.

Nước thải, khí thải và chất thải rắn đang gây ô nhiễm môi trường nước ở nhiều thành phố, khu công nghiệp và làng nghề. Hàng trăm cơ sở sản xuất công nghiệp ở các thành phố lớn đang gây ô nhiễm nước do thiếu công trình và thiết bị xử lý chất thải.

Sản xuất công nghiệp gây ra nhiều ô nhiễm nước. Ví dụ, trong các ngành công nghiệp dệt may, giấy và bột giấy, nước thải thường có độ pH trung bình từ 9 đến 11; chỉ số nhu cầu ô xy sinh hoá (BOD) và nhu cầu ô xy sinh hoá (COD) có thể lên đến 700mg/l và 2.500mg/l; hàm lượng chất rắn lơ lửng có thể lên đến 25% và  cao hơn giới hạn cho phép. Hàm lượng nước thải của các công ty này có chứa xyanua (CN-) vượt quá 84 lần tiêu chuẩn, hàm lượng H2S vượt quá 4,2 lần và hàm lượng NH3 vượt quá 84 lần tiêu chuẩn. Do đó, các nguồn nước mặt trong khu vực dân cư đã bị ô nhiễm nghiêm trọng.

Các khu công nghiệp, khu chế xuất và cụm công nghiệp tập trung có mức độ ô nhiễm nước cao. Nước thải công nghiệp từ các nhà máy giấy, bột giặt, nhuộm và dệt tổng cộng 500.000 m3/ngày gây bẩn nguồn nước tại cụm công nghiệp Tham Lương, thành phố Hồ Chí Minh.


Nước thải chưa qua xử lý thải trực tiếp ra kênh Tham Lương (hình minh họa)

Nước thải công nghiệp tại thành phố Thái Nguyên đến từ các cơ sở sản xuất giấy, luyện gang thép, luyện kim màu và khai thác than. Nước thải từ sản xuất giấy có pH là 8,4-9, có hàm lượng NH4 là 4mg/1, có màu nâu và mùi khó chịu.

Tại một số làng nghề ở Bắc Ninh sản xuất sắt, thép, đúc đồng, nhôm, chì, giấy và dệt nhuộm, nước thải không qua xử lý hàng ngàn m3/ngày, gây ô nhiễm môi trường và nguồn nước.

Thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh là những thành phố có mức độ ô nhiễm nước cao nhất. Nước thải sinh hoạt ở các thành phố này trực tiếp xả ra nguồn tiếp nhận, chẳng hạn như sông, hồ, kênh hoặc mương, không có hệ thống xử lý tập trung. Ngoài ra, nhiều cơ sở sản xuất không xử lý nước thải, hầu hết các bệnh viện và cơ sở y tế lớn không có hệ thống xử lý nước thải, và rất nhiều rác thải rắn không được thu gom hết. là một trong những nguồn chính gây ra ô nhiễm nước.


Xác cá nổi lên tại ven hồ Tây.

Hiện nay, các kênh, sông và hồ ở các thành phố lớn bị ô nhiễm nghiêm trọng. Thành phố Hà Nội có tổng lượng nước thải 300.000–400.000 m3/ngày, với 36/400 cơ sở sản xuất và các bệnh viện mới có hệ thống xử lý nước thải. Hiện tại, chỉ có 5/31 bệnh viện có hệ thống xử lý nước thải, chiếm 25% lượng nước thải của các bệnh viện. Ngoài ra, các chỉ số BOD, oxy hoà tan, các chất NH4, NO2, NO3 ở các sông, hồ, mương nội thành đều vượt quá quy định cho phép.

Tổng lượng rác thải trong thành phố Hồ Chí Minh lên tới gần 4.000 tấn mỗi ngày, nhưng chỉ có 24/142 cơ sở y tế lớn trong thành phố có khả năng xử lý nước thải và khoảng 3.000 cơ sở sản xuất gây ô nhiễm thuộc diện phải di dời.

Không chỉ ở Hà Nội và Hồ Chí Minh, mà còn ở Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Nam Định và Hải Dương.  Độ ô nhiễm của nước thải sinh hoạt cũng không được xử lý. Các thông số chất lơ lửng (SS), BOD, COD và ô xy hoà tan (DO) đều vượt quá tiểu chuẩn cho phép (TCCP), thậm chí vượt quá 20 lần TCCP.

Ô nhiễm môi trường nước ở nông thôn

Hiện nay, gần 76% dân số Việt Nam đang sinh sống ở nông thôn, nơi cơ sở hạ tầng còn lạc hậu và hầu hết các chất thải của con người và gia súc không được xử lý thấm xuống đất hoặc bị rửa trôi, làm tăng ô nhiễm hữu cơ và vi sinh vật trong nguồn nước.

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, số lượng vi khuẩn Feca coliform trung bình là 1.500–3.500 MNP/mL ở các khu vực ven sông Tiền và sông Hậu, và ở các kênh tưới tiêu là 3800–12.500 MNP/mL. Do sản xuất nông nghiệp, các nguồn nước như sông, hồ, kênh và mương bị ô nhiễm, gây nguy hiểm cho môi trường nước và sức khỏe của người dân.


Hệ thống kênh mương thoát nước tràn ngập rác thải.

Đến năm 2001, cả nước có 751.999 ha mặt nước được sử dụng cho nuôi trồng thuỷ sản, theo thống kê của Bộ Thuỷ sản. Nuôi thuỷ sản ồ ạt, không có quy hoạch và không tuân theo quy trình kỹ thuật đã gây ra nhiều hậu quả tiêu cực đối với môi trường nước.

Trong quá trình nuôi trồng thuỷ sản, cùng với việc sử dụng không đúng cách các loại hoá chất, các thức ăn dư lắng xuống đáy ao, hồ và lòng sông. Điều này làm ô nhiễm môi trường nước bằng chất hữu cơ, gây ra sự phát triển của một số loài sinh vật gây bệnh.

Các yếu tố gây ô nhiễm môi trường nước

Ô nhiễm môi trường nước có thể do nhiều yếu tố khách quan và chủ quan gây ra, chẳng hạn như sự gia tăng dân số, hiện đại hóa, công nghiệp hóa, lạc hậu và cơ sở hạ tầng yếu kém. Tuy nhiên, nhận thức của người dân về vấn đề môi trường vẫn còn chưa cao.

Quản lý và hoạt động bảo vệ môi trường chưa thật sự tốt. Ô nhiễm môi trường nước là một loại ô nhiễm gây nguy hiểm hàng ngày và khó khắc phục đối với đời sống con người và sự phát triển bền vững của quốc gia, nhưng nhận thức của nhiều cấp chính quyền, cơ quan quản lý, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm bảo vệ môi trường nước chưa đầy đủ.

Có rất ít quy định về quản lý và bảo vệ môi trường nước. Ví dụ: không có các quy định và quy trình kỹ thuật cho việc quản lý và bảo vệ nguồn nước.


Ảnh minh họa.

Cơ chế phân công và phối hợp giữa các cơ quan, ngành và địa phương chồng chéo và không rõ ràng về trách nhiệm. Không có kế hoạch khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước cho các lưu vực và lãnh thổ lớn. Chưa có các quy định hợp lý liên quan đến việc đóng góp tài chính cho quản lý và bảo vệ môi trường nước, dẫn đến thiếu tài chính và thu không đủ chi cho môi trường nước. Ngân sách đầu tư cho bảo vệ môi trường nước còn rất thấp. Mặc dù một số quốc gia trong ASEAN đã đầu tư 1% GDP cho lĩnh vực này, nhưng còn Việt Nam mới chỉ đạt 0,1%.

Còn quá ít chương trình giáo dục cộng đồng về môi trường và nước. Các nhà quản lý môi trường nước không đủ số lượng và kém chất lượng. Ở Việt Nam, trung bình có 3 nhà quản lý môi trường cho mỗi triệu người, trong khi ở một số quốc gia ASEAN có 70 nhà quản lý môi trường cho mỗi triệu người.

Các bài viết khác

0941 113 286